Đề bài: Hình tượng người phụ nữ qua các tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài), “Vợ nhặt” (Kim Lân), “Sóng” (Xuân Quỳnh) và “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu)

 

1) Bài làm của học sinh Vương Hồng Ngọc lớp 12A4 (khóa 2011- 2014)

Trong vương quốc văn học, “biên giới” là hai từ không bao giờ tồn tại. Minh chứng rõ nhất là từ xa xưa cho đến nay, đề tài về số phận và vẻ đẹp người phụ nữ luôn là một đề tài nóng, được vô số tác giả khám phá và thể hiện. Tô Hoài, Kim Lân, Xuân Quỳnh, Nguyễn Minh Châu- bốn tác giả ở bốn giai đoạn khau nhau, với bốn phong cách nghệ thuật riêng nhưng đã gặp nhau ở hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm của mình. “Vợ chồng A Phủ” với nhân vật Mị, “Vợ nhặt” với nhân vật Thị, “Sóng” với hình tượng “em” hay “Chiếc thuyền ngoài xa” với người đàn bà hàng chài, bốn người phụ nữ ấy đã làm nên bức tượng đài người phụ nữ Việt Nam mà trong mỗi hoàn cảnh, họ mang số phận và vẻ đẹp riêng.

Thơ ca từ xưa đến nay, người phụ nữ luôn gánh trên vai một số phận long đong, bất hạnh, một nỗi đau xuyên thời gian, không gian và tìm gặp nhau ở điểm chung:

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

(Nguyễn Du)

Mị trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài phải gánh chịu trên lưng kiếp sống của một con vật, dù mang danh con dâu nhà thống lí (con dâu gạt nợ). Song hành với Mị luôn là hình ảnh con trâu con ngựa, con rùa lùi lũi… cho thấy một kiếp người bất hạnh, sống không bằng con vật. Quyền sống dường như không nằm trong tay cô: vì cha mà cô không đành lòng tự tử, rồi vì A Sử ngăn cản bắt trói vào cột mà cô không thể đi chơi trong đêm tình mùa xuân… Một cuộc sống ngột ngạt tù túng, quyền con người bị tước đoạt- đó là hiện thân của xã hội mà kẻ thống trị có thể giày xéo bất cứ người dân nào.

Không chịu kiếp sống con vật như Mị nhưng người vợ nhặt trong “Vợ nhặt” của Kim Lân lại phải sống lay lắt, vật vờ trong nạn đói khủng khiếp những năm 1945. Chính cái đói đã làm mất đi vẻ đẹp nữ tính của một cô gái trẻ, đẩy Thị vào bi kịch: theo không người ta về làm vợ để có cái ăn. Hoàn cảnh xô đẩy, bản tính người bị che lấp, còn đâu lòng tự trọng và vẻ đẹp nhân cách nữa. Thị chính là một minh chứng cho “nạn nhân của hoàn cảnh”.

Gây sốc cho bạn đọc chính là số phận bất hạnh đến bi thảm của người đàn bà hàng chài: cuộc sống khổ cực trên thuyền trên biển đã đẩy gia đình mụ từ ấm êm, hòa thuận đến bạo hành, đói nghèo. Nguyễn Minh Châu đã khắc họa một con người chất chứa mội nỗi khổ to lớn, khiến người đọc nhìn vào cũng đau lòng. Cứ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng, mụ phải chịu đựng những trận đòn roi của người chồng vũ phu- đau xót làm sao! Người đàn bà hàng chài sống cam chịu, nhẫn nhục như chính mụ lựa chọn số phận bất hạnh ấy mà chẳng hề phản kháng, đấu tranh.

Mỗi người một số phận, hình tượng “em” trong “Sóng” của Xuân Quỳnh lại mang một nỗi đau về tinh thần. “Em” trong tình yêu luôn trăn trở, suy tư, ngẫm nghĩ và đặc biệt luôn khát khao hạnh phúc. Trong sự đổ vỡ của tình yêu, Xuân Quỳnh luôn phập phồng lo lắng:

Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa…

Chung quy lại, trong cả bốn tác phẩm, dù ở thời đại nào, không gian nào, hoàn cảnh nào, người phụ nữ vẫn luôn là phái yếu chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh… Đau đớn là vậy, nhưng hình tượng người phụ nữ trong văn học luôn ẩn chứa một vẻ đẹp nội tâm sâu sắc đáng trân trọng.

Nếu như ta đã thấy Mị sống kiếp con vật khi làm dâu gạt nợ nhà Thống lí Pá Tra; thì ta cũng sẽ nhận ra một cô Mị hiếu thảo, chăm chỉ, yêu tự do qua câu nói “Con nay đã biết cuốc nương, làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Trốn về nhà sau khi bị bắt làm dâu gạt nợ, định tự tử bằng nắm lá ngón nhưng nhìn người cha già yếu, cô không đành lòng để cha một mình gánh vác nợ nần. Thật hiếm thấy một người con gái hiếu thuận như vậy! Chính vẻ đẹp tâm hồn ấy, chứ không phải là nhan sắc rực rỡ khiến “trai đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị”, cũng không phải tài năng thổi sáo giỏi, đã giúp Mị tỏa sáng trong ấn tượng của người đọc.

Không đẹp cũng chẳng tài năng nhưng cô vợ nhặt của nhà văn Kim Lân lại lấy được thiện cảm của người đọc dần dần bằng chính hành động của mình. Kim Lân tả thị lúc đầu là một cô nàng chao chát chỏng lỏn, vì miếng ăn mà quên mất lòng tự trọng; nhưng càng về sau, ngòi bút của ông lại đầy cảm thông, thương xót. Thị chua ngoa nhưng cũng là một cô gái biết e thẹn khi về làm dâu, biết lễ nghĩa khi ra mắt mẹ chồng. Làm dâu, làm vợ rồi, thị dần bộc lộ hết những vẻ đẹp của một người phụ nữ: chăm chỉ giúp mẹ chồng dọn dẹp nhà cửa, cư xử lễ phép và tế nhị…

Sự chuyển biến ở thị đã khiến người đọc ngạc nhiên, thì hẳn sẽ không khỏi sửng sốt khi khám phá ra vẻ đẹp ở người đàn bà hàng chài của Nguyễn Minh Châu. Chưa ở đâu, chưa một tác phẩm văn học nào mà người phụ nữ lại bộc lộ rõ thiên tính nữ như trong “Chiếc thuyền ngoài xa”. Mụ xấu xí, thô kệch, mặt rỗ, tấm lưng áo bạc phếch… khiến người đọc mới làm quen đã thiếu thiện cảm… Nhưng dần dần, vẻ đẹp tâm hồn của một người phụ nữ từng trải đã thuyết phục chúng ta. Mụ sâu sắc và vị tha, giàu đức hi sinh: mụ thấu hiểu nỗi khổ của chồng, cam chịu bị đánh mà không một lời oán trách ca than. Mụ chăm chỉ tần tảo kéo lưới suốt đêm khiến gương mặt tái nhợt đi, để đàn con được ăn no. Mụ trải đời sâu sắc nên chỉ ra và phân tích rõ cho Phùng và Đẩu thấy những bất cập trong chính sách của nhà nước. Đặc biệt, tình mẫu tử mụ dành cho các con thật là vô biên…

Nếu người đàn bà hàng chài sâu sắc và từng trải trong cuộc sống thì “em” trong thơ Xuân Quỳnh lại sâu sắc và thấu hiểu trong tình yêu. “Em” đẹp như sóng và cũng mạnh mẽ như sóng. “Em” “dữ dội” đấy nhưng cũng rất “dịu êm”, đôi lúc “ồn ào” nhưng có những khi thật “lặng lẽ”. “Em” trong thơ Xuân Quỳnh với cảm xúc nồng cháy đã ánh lên những phẩm chất cao đẹp: thủy chung “Dẫu xuôi về phương Bắc- Dẫu ngược về phương Nam- Nơi nào em cũng nghĩ- Hướng về anh một phương”, tin tưởng vào tình yêu “Ở ngoài kia đại dương- Trăm ngàn con sóng đó- Con nào chẳng tới bờ- Dù muôn vời cách trở”, sẵn sàng hi sinh để bất tử hóa tình yêu “Làm sao được tan ra- Thành trăm con sóng nhỏ- Giữa biển lớn tình yêu- Để ngàn năm còn vỗ”…

Quả thật, số phận bất hạnh không làm mờ đi vẻ đẹp của người phụ nữ trong văn học, tiêu biểu cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam: tảo tần, chăm chỉ, thủy chung, sâu sắc, từng trải, giàu đức hi sinh, giàu lòng vị tha, yêu gia đình… Đó là những vẻ đẹp khuất lấp cần khám phá để thấy được chiều sâu nhân văn trong mỗi tác phẩm.

Trong cuộc sống, trong tình yêu, người phụ nữ nào chẳng khao khát có được hạnh phúc, có một mái ấm gia đình đúng nghĩa. Và đó cũng là vẻ đẹp tâm hồn nổi bật nhất của những người phụ nữ trong các tác phẩm văn học.

Trong Vợ chồng A Phủ, Mị lầm lũi là vậy bởi sống lâu trong cảnh khổ, Mị đã quen khổ; thế nhưng khi nghe tiếng sáo từ lấp ló ngoài đầu núi, đến văng vẳng ở đầu làng, rồi lửng lơ bay ngoài đường… sức sống trong Mị như hồi sinh. Mị thấy yêu đời trở lại, Mị thấy mình trẻ, Mị khao khát tự do và muốn được đi chơi. Tất cả đã cho thấy người phụ nữ dù trong đau khổ tù túng thì trái tim họ vẫn luôn hướng về, luôn hi vọng và khát khao hạnh phúc. Chính vì thế, Mị đã chạy theo A Phủ, chạy theo hạnh phúc của mình, rời bỏ mảnh đất Hồng Ngài đau thương.

Trong “Vợ nhặt” của Kim Lân, người vợ nhặt cũng vậy, thị theo Tràng về chẳng qua cũng vì muốn tìm một mái ấm gia đình, một nơi được bao bọc trong tình yêu thương. Thị đã khơi dậy ở Tràng hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới và đám người đói đi phá kho thóc của Nhật- đó là minh chứng rõ nhất cho khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc đang rực cháy trong tâm hồn thị.

Hay như người đàn bà hàng chài, trong đau khổ bất hạnh, khuôn mặt mụ vẫn “ửng sáng lên như một nụ cười”, khi nhắc đến chuyện “ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. Mụ thương con và hiểu chồng, mụ cố gắng chắt lọc lấy hạnh phúc chứ nhất quyết không li hôn với gã chồng vũ phu.

Đặc biệt, khát khao hạnh phúc được Xuân Quỳnh thể hiện mãnh liệt thông qua hình tượng “són” và “em”. “Em” trăn trở, giàu lòng trắc ẩn, day dứt về tình yêu chính vì “em” luôn tìm kiếm hạnh phúc trọn vẹn “Bồi hồi trong ngực trẻ”. Yêu say đắm, tha thiết, nhưng khát khao tình yêu đích thực, khát khao hạnh phúc vẫn luôn thường trực trong trái tim người phụ nữ.

Trong văn học, hình tượng người phụ nữ không mới mẻ nhưng dưới ngòi bút của mỗi tác giả, hình tượng ấy lại đem đến cho bạn đọc cảm giác khác nhau thông qua những tác phẩm khác nhau. Dù là thơ, truyện hay tiểu thuyết, các tác giả vẫn luôn tập trung làm nổi bật hình tượng người phụ nữ với số phận bất  hạnh nhưng ẩn sâu những vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam với khát khao hạnh phúc mãnh liệt.

 

2) Bài làm của học sinh Nguyễn Thị Bích Ngọc lớp 12D1 (khóa 2011- 2014)

Trong cuộc đời mỗi con người chúng ta không thể thiếu vắng hình ảnh những người phụ nữ, đó là những người bà, người mẹ chở che, những người chị đảm đang, người vợ tảo tần… Văn học Việt Nam cũng vậy, luôn tôn vinh hình tượng người phụ nữ với tất cả những gì tốt đẹp nhất.

Ta bắt gặp một cô gái trẻ với đôi mắt khát khao được sống phía sau khung cửa nhà Thống lí Pá Tra, cô gái ấy là Mị trong truyện  ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài. Tôi thấy một người phụ nữ với sự dịu dàng, đảm đang ẩn sau vẻ “chao chát chỏng lỏn” trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân. Tôi rung động trước con “Sóng” lòng của thi sĩ Xuân Quỳnh. Tôi càng chua xót và thương cảm hơn khi nghĩ về người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu.

Tuy xuất hiện trong những hoàn cảnh khác nhau nhưng họ đều hiện lên là một hình tượng mẫu mực bậc nhất trong nền văn học Việt Nam- hình tượng người phụ nữ. Họ đã từng xuất hiện là người phụ nữ dân tộc xuất hiện trong thơ Nguyễn Khoa Điềm địu con con lên rẫy bẻ ngô, ru con ngủ mà mồ hôi ướt đẫm; hay là Dít, là Mai với đôi mắt đen láy cương nghị trong “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành…

Trong “Vợ chồng A Phủ”, Mị hiện lên từ cuộc sống câm lặng trong kiếp làm dâu gạt nợ nhà Thống lí. Ta không thể quên Mị đã từng kiên quyết nói rằng thà đi làm nương chứ không chịu bị gả vào nhà Thống lí. Sự mạnh mẽ ấy cuối cùng không thể giúp Mị thoát khỏi kiếp làm dâu gạt nợ. Mị đã muốn chết nhưng rồi không thể, nắm lá ngón hái về đành vứt xuống đất. Mị muốn thoát khỏi nhà Thống lí, Mị đã khóc nhiều đêm liền, nhưng rồi nước mắt cũng cạn, Mị đành “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, chỉ còn biết thả mình theo tiếng sáo để trở về ngày xưa cũ, khi Mị còn tự do. Sức sống tiềm tàng của Mị tạo nên một ấn tượng khó phai về người con gái này, cô câm lặng nhưng không cam tâm chết. Thế nhưng trong đêm cởi trói cho A Phủ, cũng như bao lần Mị thổi lửa hơ tay hơ lưng giữa đêm để lưu giữ hơi nồng nơi tâm hồn; nhưng đêm nay giọt nước mắt A Phủ đã khiến Mị trỗi dậy lòng thương người, đã hâm nóng và thổi lên ngọn lửa trong tâm hồn Mị. Không còn gương mặt “buồn rười rượi”, gương mặt Mị giờ sáng bừng lên quyết liệt. Mị giống như vị cứu tinh cứu lấy không chỉ cuộc đời A Phủ mà còn cứu lấy chính mình.

Cũng ra đời trong kháng chiến chống Pháp nhưng thị trong “Vợ nhặt” không giống Mị. Thị xuất hiện với vẻ ngoài xấu xí, cái miệng chua ngoa nhưng lại trở nên rụt rè khi về tới nhà Tràng. Mang thân vợ nhặt về làm dâu nhà người, thị đã đối xử với mẹ con Tràng bằng tất cả lòng biết ơn và tình yêu của mình: thị quét tước sân vườn sạch sẽ, kín đầy ang nước, phơi cả đống quần áo đã vắt khươm mươi niên ở góc nhà. Thị không một lời oán trách khi và vào miệng miếng cháo cám chát xít và nghẹn bứ. Ở thị, tôi thấy một người phụ nữ sắc sảo trước thời cuộc, đảm đang, cam chịu và sẵn sàng chia sẻ yêu thương giữa những ngày đói kém nhất. Thị mang đến một làn gió mới tươi mát thổi vào tâm hồn Tràng, cụ Tứ và cả người dân xóm ngụ cư.

Bông “hoa dọc chiến hào” Xuân Quỳnh lại mang đến chút tự tình lãng mạn trong những năm tháng chống Mỹ ác liệt bằng bài thơ “Sóng”. Nhạy cảm, tinh tế, Xuân Quỳnh trong vai “em” đã đứng trước biển lớn để giãi bày khao khát yêu thương, mạnh dạn xóa đi rào cản của quan niệm về người phụ nữ thụ động trong tình yêu. Trải qua bao trăn trở, Xuân Quỳnh quyết định hóa thân tan thành “trăm con sóng nhỏ” để vỗ mãi ru êm tình yêu muôn thuở. Một người phụ nữ nội tâm, tràn đầy khao khát và giàu đức hy sinh như vậy đã vẽ nên hình ảnh mềm mại của “Sóng” trong làng thơ Việt Nam.

Tôi tìm thấy “hạt ngọc ẩn giấu của tâm hồn con người” nơi người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Trong con giông bão của “đêm trước ngày đổi mới”, chị phải vất vả xoay xở, một bên là nỗi lo cho từng miếng cơm manh áo, một bên là nỗi đau thân xác từ những trận đòn roi. Chị nói rằng “đàn bà hàng chài không thể sống cho mình”, bởi cuộc đời chị đã bất hạnh từ nhỏ: sinh ra trong gia đình khá giả  nhưng ngoại hình xấu xí, chị may mắn được anh con trai hàng chài yêu thương. Sóng gió cuộc đời ập đến, phá vỡ hạnh phúc nhỏ nhoi ấy khi “thuyền quá nhỏ, nhà lại thêm đông con”. Những trận đòn roi mà gã chồng vũ phu giáng xuống tấm lưng gầy của chị không chỉ đơn thuần là vì hắn “khổ quá” như chị vẫn thường nói, đó còn là trận đòn từ những éo le, bất hạnh do hoàn cảnh xô đẩy tấm thân chị. Thế nhưng từ sâu trong bùn đất, chị sáng lên với vẻ đẹp tâm hồn rạng ngời- vẻ đẹp của mẫu tính. Chị chỉ hạnh phúc nhất khi thấy các con được ăn no, chị không đau lòng khi bị đánh, chị chỉ cần cho con thuyền được êm ấm “tuyệt mĩ”. Người đàn bà mặt rỗ, khắc khổ với tấm lưng áo bạc phếch đã phản ánh hiện thực đời sống phức tạp dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu.

Bốn tác phẩm khác nhau hoàn toàn về tác giả cũng như hoàn cảnh ra đời nhưng lại có chung một góc nhìn về người phụ nữ. Họ tuy có những cảnh ngộ riêng, gánh chịu những bất hạnh, khổ đau, mang những nỗi niềm riêng, nhưng đều là những gì đẹp nhất, dịu dàng nhất, thuần khiết nhất. Mị đại diện cho tuổi trẻ, cho sức sống tiềm tàng dù bị đày đọa thân xác, cho cả tình yêu thương con người vô bờ bến bất chấp mọi nguy hiểm, thậm chí cả cái chết. Thị- vợ anh Tràng- trong những tháng ngày đói khát nhất của dân tộc lại tỏa sáng vẻ đẹp tâm hồn với sự sắc sảo mà dịu hiền, mạnh mẽ chọn cho mình chỗ dựa qua ngày đói bất chấp dị nghị. Có lẽ Thị sẽ trở thành một người mẹ tốt với bản năng sẵn có của một  người mẹ, Thị sẽ yêu thương con mình như yêu thương Tràng và bà cụ Tứ- những người đã cứu vớt đời Thị. Xuân Quỳnh trong nỗi đau đổ vỡ tình yêu, đã mạnh mẽ sẵn sàng bất chấp quan niệm cũ để tìm hạnh phúc riêng. Và với vẻ đẹp mẫu tính sáng ngời, cũng giống như Quỳ trong “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, Nguyễn Minh Châu khắc họa người đàn bà hàng chài với tình thương yêu vô bờ bến, đức hy sinh và sự nhẫn nhục, cam chịu để chiến đấu với giặc đói giặc dốt bao vây. Những người phụ nữ ấy không quá đẹp ở ngoại hình nhưng lại khiến người đọc bị thuyết phục bởi vẻ đẹp nhân cách. Sẽ còn là Từ trong truyện ngắn “Đời thừa” của Nam Cao, là chị Chiến trong “Những đứa con trong gia đình” là bà cụ Tứ mẹ Tràng trong “Vợ nhặt”… Trong mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp, mọi giai đoạn lịch sử, ta đều bắt gặp những người phụ nữ  “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” như Bác Hồ từng nói. Vẻ đẹp phụ nữ Việt Nam đã, đang và sẽ còn tỏa sáng trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc.

Phụ nữ giống như những bông hoa, mỏng manh nhưng không kém phần kiên cường, có đóa hoa đẹp về màu sắc nhưng có đóa hoa lại ngát hương thơm, nhưng tất cả đều có chung một nhiệm vụ đó là nuôi dưỡng sức sống cho cuộc đời, luôn hết mình khoe sắc và giữ gìn giống nòi cho muôn đời sau. Ý thức được điều đó, bằng ngòi bút nhân đạo của mình, các nhà văn nhà thơ hiện đại, đặc biệt là qua các tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” ; “Vợ nhặt” ; “Sóng” và “Chiếc thuyền ngoài xa” đã xây dựng hình tượng người phụ nữ hiện lên như những tượng đài bất khuất, đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam qua các thời kỳ, luôn sáng ngời mẫu tính, tình thương yêu, sự dịu hiền, đảm đang và tình cảm chân thành nhất nơi tâm hồn con người.